Tiểu luận: Tìm hiểu thị trường vàng tại Việt Nam hiện nay
Số trang: 35
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.01 MB
Lượt xem: 3340
Lượt tải: 1
Thông tin tài liệu
Tìm hiểu thị trường vàng tại Việt Nam hiện nay
***
I. Thị trường vàng:
Chức năng bao quát và sức hấp dẫn mạnh mẽ của vàng là một phương tiện đầu tư, có được nền tảng cơ sở là nguồn cung và nguồn cầu năng động của thị trường vàng.
Vàng mang tính đặc biệt bởi nó vừa là tài sản dạng hàng hóa vừa là tài sản dưới dạng tiền tệ. Bởi vì nó thực sự không thể tiêu hủy được, tất cả vàng thuộc loại khoáng sản vẫn tồn tại trên mặt đất dưới dạng này hoặc dạng khác và theo lý thuyết đa số trữ lượng vàng trên mặt đất thì dễ khai thác. Điều này có nghĩa là việc khai thác vàng khá đơn giản, chỉ là chuyện tái chế lại từ dạng này sang dạng khác. Đây là một trong những lý do tại sao giá vàng trong lịch sử thường ít biến động hơn giá những hàng hóa thông thường khác. Nó cũng giải thích tại sao thị trường vàng trước đây nhìn chung là ổn định.
GFMS Ltd ước tính cuối năm 2006 trữ lượng vàng trên mặt đất có khối lượng xấp xỉ 158000 tấn, trong đó đã khai thác 66% từ năm 1950.
Trữ lượng vàng được nắm giữ trong các cơ quan có thẩm quyền bao gồm ngân hàng trung ương, những cơ quan chính phủ như Monetary Authority của Singapore, và những tổ chức siêu quốc gia như Quỹ tiền tệ thế giới, ngân hàng trung ương Châu Âu...
Vàng thỏa mãn nhu cầu hằng năm bao gồm cả vàng khai thác và vàng tái chế được khai thác từ những năm trước. Biểu đồ giữa bên trên chỉ ra rằng qua hơn 5 năm, vàng tái chế nhiều từ thị trường trang sức, chiếm ¼ nguồn cung vàng, đứng sau là lượng vàng được bán ra từ ngân hàng trung ương.
Nhu cầu hằng năm về vàng có ba loại chính, lớn nhất là nhu cầu từ thị trường trang sức khoảng 44 tỷ USD năm 2006. Nhu cầu công nghiệp vê vàng lớn nhất là cho lĩnh vực điện tử,nhưng cũng bao gồm lĩnh vực nha khoa và một số ngành công nghiệp khác và đáp ứng cho việc trang hoàng. Cuối cùng trong nguồn cầu là nhu cầu đầu tư. Bởi vì một phần quan trọng trong nhu cầu đầu tư là được xử lý trên thị trường OTC và không dễ dàng để định lượng được tổng giá trị giao dịch. Các hoạt động đầu tư thể hiện trên biều đồ trên bao gồm đầu tư cho vàng thỏi, tiền đồng, huy chương và tiền đồng giả, “ đầu tư nhỏ lẻ khác” và đầu tư trong việc trao đổi giao dịch quỹ vàng và sản phẩm có liên quan.
Nhu cầu đầu tư tăng mạnh vào năm 2006, tăng 8% số lượng và hơn 45% về giá trị USD thu được so với năm trước. Năm 2006 Nam Phi là nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới, với 292 tấn chiếm 12% tổng sản lượng, theo sau là Mỹ với 252 tấn , chiếm hơn 10% tổng sản lượng, kế đó là Trung Quốc hơn 247 tấn. Điểm đặc biệt nổi lên trong thập niên vừa qua là Indonesia, trong năm 1992 chỉ sản xuất 2 tấn nhưng đến năm 2005 là hơn 114 tấn, nổi bật là mỏ Grasberg, là nơi sản xuất vàng lớn nhất thế giới. Và Peru sản xuất tăng từ 218 tấn trong năm 1992 lên 203 tấn trong năm 2006, với một nửa đến từ mỏ Yanacocha của Newmont, nơi sản xuất vàng lớn thứ 2 thế giới trên mực nước biển 14.000 feet ở dãy Andes.
Nhiều nước sản xuất vàng trên thế giới lại là những nước nghèo bị mắc nợ nhiều của Ngân Hàng Thế Giới. Đối với một vài quốc gia vàng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong xuất khẩu của họ,ví dụ như Ghana và Mali vàng là hàng hóa xuất khẩu đứng thứ ba..
Tóm lại vàng nổi bật trong vai trò là phương tiện cất trữ. Thị trường vàng hình thành dựa trên nguồn cầu và nguồn cung vàng. Nguồn cung bao gồm vàng khoáng sản được khai thác mới và vàng tái chế. Nguồn cầu gồm nhu cầu cho việc làm trang sức, công nghiệp, trang hoàng và đầu tư. Trên cơ sở cung và cầu vàng sẽ hình thành giá vàng, đồng thời cung, cầu vàng cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.
II. Các nguồn cung và cầu vàng:
Nguồn cung:
a. Vàng khai thác
Tổng số lượng vàng đã khai thác trong lịch sử xấp xỉ 158 000 tấn, trong đó 66% là được khai thác từ năm 1950. Xu hướng phát triển sản xuất hằng năm bây giờ đã ổn định, bởi vì xu hướng tiêu dùng đã chậm lại vào cuối những năm 1990. Những nhà phân tích độc lập tin rằng khai thác vẫn sẽ duy trì ổn định trong một vài năm tới và nếu có thay đổi giảm xuống thì không đáng kể.
Vàng được khai thác sâu nhất hiện tại là mỏ Savuka, khai thác trên mép tây bắc của Witwatersrand Basin-Nam Phi. Hoạt động khai thác ở độ sâu 3.774m.Điều này có nghĩa là việc khai thác vàng rất khó khăn và tốn kém, đòi hỏi công nghệ tiên tiến. Chi phí sản xuất thay đổi mạnh tùy theo mỏ tự nhiên (hầm) hay khai thác dưới mặt đất và độ sâu bao nhiêu, trữ lượng quặng và lớp khai thác.
b. Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương và những tổ chức xuyên quốc gia nắm giữ 1/5 trữ lượng vàng trên mặt đất như tài sản dự trữ, nhưng đang giảm đều qua thời gian. 28 500 tấn trong trữ lượng trên mặt đất trong biểu đồ bên trên gồm vàng sở hữu bởi ngân hàng trung ương và một phần bên ngoài là cho vay với con số cao hơn là không đáng kể.
Xem thêm
***
I. Thị trường vàng:
Chức năng bao quát và sức hấp dẫn mạnh mẽ của vàng là một phương tiện đầu tư, có được nền tảng cơ sở là nguồn cung và nguồn cầu năng động của thị trường vàng.
Vàng mang tính đặc biệt bởi nó vừa là tài sản dạng hàng hóa vừa là tài sản dưới dạng tiền tệ. Bởi vì nó thực sự không thể tiêu hủy được, tất cả vàng thuộc loại khoáng sản vẫn tồn tại trên mặt đất dưới dạng này hoặc dạng khác và theo lý thuyết đa số trữ lượng vàng trên mặt đất thì dễ khai thác. Điều này có nghĩa là việc khai thác vàng khá đơn giản, chỉ là chuyện tái chế lại từ dạng này sang dạng khác. Đây là một trong những lý do tại sao giá vàng trong lịch sử thường ít biến động hơn giá những hàng hóa thông thường khác. Nó cũng giải thích tại sao thị trường vàng trước đây nhìn chung là ổn định.
GFMS Ltd ước tính cuối năm 2006 trữ lượng vàng trên mặt đất có khối lượng xấp xỉ 158000 tấn, trong đó đã khai thác 66% từ năm 1950.
Trữ lượng vàng được nắm giữ trong các cơ quan có thẩm quyền bao gồm ngân hàng trung ương, những cơ quan chính phủ như Monetary Authority của Singapore, và những tổ chức siêu quốc gia như Quỹ tiền tệ thế giới, ngân hàng trung ương Châu Âu...
Vàng thỏa mãn nhu cầu hằng năm bao gồm cả vàng khai thác và vàng tái chế được khai thác từ những năm trước. Biểu đồ giữa bên trên chỉ ra rằng qua hơn 5 năm, vàng tái chế nhiều từ thị trường trang sức, chiếm ¼ nguồn cung vàng, đứng sau là lượng vàng được bán ra từ ngân hàng trung ương.
Nhu cầu hằng năm về vàng có ba loại chính, lớn nhất là nhu cầu từ thị trường trang sức khoảng 44 tỷ USD năm 2006. Nhu cầu công nghiệp vê vàng lớn nhất là cho lĩnh vực điện tử,nhưng cũng bao gồm lĩnh vực nha khoa và một số ngành công nghiệp khác và đáp ứng cho việc trang hoàng. Cuối cùng trong nguồn cầu là nhu cầu đầu tư. Bởi vì một phần quan trọng trong nhu cầu đầu tư là được xử lý trên thị trường OTC và không dễ dàng để định lượng được tổng giá trị giao dịch. Các hoạt động đầu tư thể hiện trên biều đồ trên bao gồm đầu tư cho vàng thỏi, tiền đồng, huy chương và tiền đồng giả, “ đầu tư nhỏ lẻ khác” và đầu tư trong việc trao đổi giao dịch quỹ vàng và sản phẩm có liên quan.
Nhu cầu đầu tư tăng mạnh vào năm 2006, tăng 8% số lượng và hơn 45% về giá trị USD thu được so với năm trước. Năm 2006 Nam Phi là nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới, với 292 tấn chiếm 12% tổng sản lượng, theo sau là Mỹ với 252 tấn , chiếm hơn 10% tổng sản lượng, kế đó là Trung Quốc hơn 247 tấn. Điểm đặc biệt nổi lên trong thập niên vừa qua là Indonesia, trong năm 1992 chỉ sản xuất 2 tấn nhưng đến năm 2005 là hơn 114 tấn, nổi bật là mỏ Grasberg, là nơi sản xuất vàng lớn nhất thế giới. Và Peru sản xuất tăng từ 218 tấn trong năm 1992 lên 203 tấn trong năm 2006, với một nửa đến từ mỏ Yanacocha của Newmont, nơi sản xuất vàng lớn thứ 2 thế giới trên mực nước biển 14.000 feet ở dãy Andes.
Nhiều nước sản xuất vàng trên thế giới lại là những nước nghèo bị mắc nợ nhiều của Ngân Hàng Thế Giới. Đối với một vài quốc gia vàng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong xuất khẩu của họ,ví dụ như Ghana và Mali vàng là hàng hóa xuất khẩu đứng thứ ba..
Tóm lại vàng nổi bật trong vai trò là phương tiện cất trữ. Thị trường vàng hình thành dựa trên nguồn cầu và nguồn cung vàng. Nguồn cung bao gồm vàng khoáng sản được khai thác mới và vàng tái chế. Nguồn cầu gồm nhu cầu cho việc làm trang sức, công nghiệp, trang hoàng và đầu tư. Trên cơ sở cung và cầu vàng sẽ hình thành giá vàng, đồng thời cung, cầu vàng cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.
II. Các nguồn cung và cầu vàng:
Nguồn cung:
a. Vàng khai thác
Tổng số lượng vàng đã khai thác trong lịch sử xấp xỉ 158 000 tấn, trong đó 66% là được khai thác từ năm 1950. Xu hướng phát triển sản xuất hằng năm bây giờ đã ổn định, bởi vì xu hướng tiêu dùng đã chậm lại vào cuối những năm 1990. Những nhà phân tích độc lập tin rằng khai thác vẫn sẽ duy trì ổn định trong một vài năm tới và nếu có thay đổi giảm xuống thì không đáng kể.
Vàng được khai thác sâu nhất hiện tại là mỏ Savuka, khai thác trên mép tây bắc của Witwatersrand Basin-Nam Phi. Hoạt động khai thác ở độ sâu 3.774m.Điều này có nghĩa là việc khai thác vàng rất khó khăn và tốn kém, đòi hỏi công nghệ tiên tiến. Chi phí sản xuất thay đổi mạnh tùy theo mỏ tự nhiên (hầm) hay khai thác dưới mặt đất và độ sâu bao nhiêu, trữ lượng quặng và lớp khai thác.
b. Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương và những tổ chức xuyên quốc gia nắm giữ 1/5 trữ lượng vàng trên mặt đất như tài sản dự trữ, nhưng đang giảm đều qua thời gian. 28 500 tấn trong trữ lượng trên mặt đất trong biểu đồ bên trên gồm vàng sở hữu bởi ngân hàng trung ương và một phần bên ngoài là cho vay với con số cao hơn là không đáng kể.
Gợi ý tài liệu cho bạn
Gợi ý tài liệu cho bạn
Gợi ý tài liệu cho bạn
-
44 0 0
-
172 0 0
-
Dự án - Thí điểm thiết lập bộ chỉ số đánh giá rủi ro thiên tai cho 1 lưu vực sông
505 0 0 -
Luận văn thạc sĩ_ Nghiên cứu tính năng động cơ DA465QE sử dụng BIOGAS-LPG
450 0 0 -
510 0 0
-
470 0 0