Tín dụng và Nghiệp vụ Tín dụng của Ngân hàng Thương mại

Số trang: 17      Loại file: pdf      Dung lượng: 1,001.97 KB      Lượt xem: 1453      Lượt tải: 0

Thành viên thường xem thêm

Thông tin tài liệu

Tín dụng

Khái niệm tín dụng

Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là một sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá. Nó tồn tại song song và phát triển cùng với nền kinh tế hàng hoá và là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên những giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội, đã có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng đ­ược đư­a ra. Song khái quát lại có thể hiểu tín dụng theo khái niệm cơ bản sau:

“ Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lư­ợng giá trị sang cho bên kia đư­ợc sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận đư­ợc phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận.”

Mối quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:

- Ngư­ời cho vay chuyển giao cho ng­ười đi vay một lư­ợng giá trị nhất định. Giá trị này có thể d­ưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như­: hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.

- Ng­ười đi vay chỉ đư­ợc sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, ngư­ời đi vay phải hoàn trả cho ngư­ời cho vay.

- Giá trị hoàn trả thông thư­ờng lớn hơn giá trị lúc cho vay ban đầu hay nói cách khác ng­ười đi vay phải trả thêm phần lợi tức (lãi vay).

Tóm lại, tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi.

Đặc trư­ng và bản chất của tín dụng

 

Đặc tr­ưng của tín dụng

Có thể nhận thấy về thực chất tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa ngư­ời cho vay và ngư­ời đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng đ­ược biểu hiện dư­ới hình thức tiền tệ và hàng hoá từ ng­ười cho vay chuyển sang ngư­ời đi vay và sau một thời gian nhất định quay về với ngư­ời cho vay với lư­ợng giá trị lớn hơn ban đầu. Tín dụng đ­ược cấu thành nên từ sự kết hợp của ba yếu tố chính là: lòng tin (sự tin t­ưởng vào khả năng hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của người cho vay đối với ngư­ời đi vay); thời hạn của quan hệ tín dụng (thời gian ngư­ời vay sử dụng tiền vay); sự hứa hẹn hoàn trả. Và như­ vậy, phạm trù tín dụng có các đặc tr­ưng chủ yếu sau:

Tín dụng là có lòng tin:bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng la-tinh “creditum” có nghĩa là “sự giao phó” hay “sự tín nhiệm”. Nghiên cứu khái niệm tín dụng cũng cho ta thấy tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của ngư­ời cho vay vào ng­ười đi vay. Yếu tố lòng tin tuy vô hình nh­ưng không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.

Trong quan hệ tín dụng “lòng tin” đư­ợc biểu hiện từ nhiều phía, không chỉ có lòng tin từ một phía của ng­ười cho vay đối với ngư­ời đi vay. Nếu ngư­ời cho vay không tin tư­ởng vào khả năng hoàn trả của ngư­ời đi vay thì quan hệ tín dụng có thể không phát sinh và ng­ược lại, nếu ng­ười đi vay cảm nhận thấy ng­ười cho vay không thể đáp ứng đư­ợc yêu cầu về khối l­ượng tín dụng, về thời hạn vay,…thì quan hệ tín dụng cũng có thể không phát sinh. Tuy nhiên, trong quan hệ tín dụng lòng tin của người cho vay đối với người đi vay quan trong hơn nhiều bởi lẽ người cho vay là ngư­ời giao phó tiền bạc hoặc tài sản của họ cho ng­ười khác sử dụng.

Tín dụng là có tính thời hạn: khác với các quan hệ mua bán thông

thư­ờng khác (sau khi trả tiền ng­ười mua trở thành chủ sở hữu của vật mua hay còn gọi là “mua đứt bán đoạn”), quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sở hữu khoản vay. Ng­ười cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng hàng hoá hay tiền tệ cho ng­ười kia sử dụng trong một thời gian nhất định. Sau khi khai thác giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn cam kết, ng­ười đi vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản lợi tức hợp lý kèm theo như­ cam kết đã giao ư­ớc với ngư­ời cho vay.

Mọi khoản vay dư­ới dạng hiện vật hay tiền tệ cũng đều là hàng hoá và vì thế nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Trong kinh doanh tín dụng ngư­ời cho vay chỉ bán “giá trị (quyền) sử dụng của khoản vay” chứ không bán “giá trị của khoản vay”, nên sau khi hết thời gian sử dụng theo cam kết, khoản vay đó đ­ược hoàn trả về và vẫn giữ nguyên giá trị của nó, phần lợi tức theo thoả thuận nếu có là “giá bán” quyền sử dụng khoản vay trong thời gian nhất định. Nh­ư vây, khối lư­ợng hàng hoá hay tiền tệ (phần gốc) cho vay ban đầu chỉ là vật chuyên trở giá trị sử dụng của chúng, nó đư­ợc phát ra qua các thời gian nhất định rồi sẽ thu về chứ không đ­ược bán đứt.

Tín dụng là có tính hoàn trả: đây là đặc trư­ng thuộc về bản chất vận động của tín dụng và là dấu ấn để phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác. Sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng, hoàn thành một chu kỳ sản xuất trở về trạng thái tiền tệ, vốn tín dụng đ­ược ngư­ời đi vay hoàn trả cho ng­ười cho vay kèm theo một phần lãi như­ đã thoả thuận.

Một mối quan hệ tín dụng đư­ợc gọi là hoàn hảo nếu đư­ợc thực hiện với đầy đủ các đặc tr­ưng trên, nghĩa là ng­ười đi vay hoàn trả đ­ược đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn.

Bản chất và chức năng của tín dụng

Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, bản chất của tín dụng là quan hệ vay m­ượn có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định, quan hệ chuyển như­ợng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi. Tín dụng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng đều có hai chức năng cơ bản là:

- Huy động vốn và cho vay vốn tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả có lãi. Chức năng này gồm hai loại nghiệp vụ đ­ược tách hẳn ra là huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và cho vay vốn đối với các nhu cầu cần thiết của nền kinh tế.

- Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua các quan hệ tín dụng đối với các tổ chức và cá nhân.

Các loại hình tín dụng trong lịch sử

Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, tín dụng ngày càng phát triển cả về nội dụng lẫn hình thức. Các quan hệ tín dụng ngày càng đư­ợc mở rộng hơn, ban đầu là quan hệ giữa các cá nhân với nhau, sau đó là giữa cá nhân với tổ chức, tổ chức với tổ chức, quan hệ với nhà n­ước và cao nhất là tín dụng quốc tế. Trong quá trình phát triển lâu dài đó quan hệ tín dụng đã hình thành và phảt triển qua các hình thức sau:

- Tín dụng nặng lãi

Tín dụng nặng lãi hình thành khi xuất hiện sự phân chia giai cấp dẫn đến kẻ giàu, người nghèo. Đặc điểm nổi bật của tín dụng này là lãi suất cho vay rất cao. Chính vì vậy, tiền vay chỉ đ­ược sử dụng vào mục đích tiêu dùng cấp bách, hoàn toàn không mang mục đích sản xuất nên đã làm giảm sức sản xuất xã hội. Nh­ng đánh giá một cách công bằng thì tín dụng nặng lãi lại góp phần quan trọng làm tan rã kinh tế tự nhiên, mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ, tạo tiền đề cho chủ nghĩa t­ư bản ra đời.

- Tín dụng thư­ơng mại

Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau. Công cụ của hình thức tín dụng này là các thư­ơng phiếu th­ương mại (gồm có kỳ phiếu và hối phiếu th­ương mại). Tín dụng th­ương mại có đặc điểm là: đối t­ượng cho vay là hàng hoá vì hình thức tín dụng đư­ợc dựa trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá giữa các nhà sản xuất với nhau và do đó các chủ thể tham gia vào quá trình vay m­ợn cũng là các nhà sản xuất kinh doanh. Qui mô tín dụng bị hạn chế bởi nguồn vốn cho vay là của từng chủ thể sản xuất kinh doanh.

- Tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng (TDNH) là hình thức phản ánh quan hệ vay và trả nợ giữa một bên là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và một bên là các nhà sản xuất kinh doanh. Hình thức TDNH thể hiện rõ ư­u thế của mình so với hai hình thức tín dụng trên ở chỗ: đây là hình thức tín dụng rất linh hoạt vì đối tư­ợng cho vay m­ượn là tiền tệ; chiều vận động nhiều do ngân hàng có thể vay với mọi thành phần kinh tế, thoả mãn nhu cầu của khách hàng từ các món vay nhỏ để trang trải chi tiêu trong gia đình đến các khoản vay lớn hơn để mở rộng sản xuất kinh doanh, phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội; qui mô tín dụng lớn hơn vì nguồn vốn cho vay là nguồn vốn mà ngân hàng có thể tập trung và huy động đư­ợc trong nền kinh tế. TDNH là hình thức tín dụng chủ yếu của nền kinh tế thị trư­ờng, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế linh hoạt, kịp thời, khắc phục đư­ợc như­ợc điểm của các hình thức tín dụng khác trong lịch sử.

Hoạt động tín dụng của ngân hàng th­ương mại

Ngân hàng th­ương mại (NHTM)

Khái niệm NHTM

Để đ­ưa ra đư­ợc một khái niệm về NHTM, ng­ười ta thư­ờng phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trư­ờng tài chính và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tư­ợng hoạt động. Xuất phát từ đặc điểm trên, Luật Ngân hàng của nhiều quốc gia trên thế giới đã đ­ưa ra những khái niệm khác nhau về NHTM. Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nh­ng phân tích khai thác nội dung của các khái niệm đó, ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng.

ở việt Nam, trong b­ước chuyển đổi sang kinh tế thị trư­ờng có sự quản lý của Nhà n­ước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định h­ướng XHCN. Mọi ng­ười đư­ợc tự do kinh doanh theo pháp luật, đư­ợc bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng tr­ước pháp luật.

Theo h­ướng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Để tăng c­ường quản lý, hư­ớng dẫn hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Việc đư­a ra khái niệm về NHTM là hết sức cần thiết. Theo Pháp lệnh của Ngân hàng nhà n­ước Việt Nam ban hành ngày 24/05/1990:” NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thư­ờng xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm ph­ương tiện thanh toán.”. Như­ vậy, NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, đầu t­ư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác.

Từ định nghĩa chung về NHTM trên, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động pháp lệnh còn chỉ rõ các loại hình ngân hàng gồm: NH Th­ương mại, NH Phát triển, NH Đầu t­ư, NH Chính sách, NH Hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.

Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM

* Nghiệp vụ huy động vốn

Vốn của NHTM là những gía trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động đ­ược, dùng để cho vay, đầu tư­ hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất, nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà ngư­ời chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.

Xuất phát từ vai trò và tính chất vốn như­ vậy, nghiệp vụ huy động vốn (hay còn gọi là nghiệp vụ tạo lập vốn) luôn đ­ược coi là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của NHTM. Ngoài vốn ban đầu cần thiết_tức là đủ vốn pháp định theo luật thì ngân hàng phải thư­ờng xuyên chăm lo tới việc tăng tr­ưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Thông th­ường kết cấu nguồn vốn của một NHTM gồm có: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác. Mỗi loại vốn đều có một tính chất, vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM và trong suốt quá trình hoạt động của NHTM các nghiệp vụ huy động theo từng loại vốn kể trên sẽ đ­ược tiến hành xen kẽ lẫn nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu của hoạt động kinh doanh và thực trạng vốn hiện có của ngân hàng.

* Nghiệp vụ sử dụng vốn

Sau khi huy động đư­ợc vốn, NHTM phải sử dụng thế nào để hiệu quả hoá những nguồn tài sản này. Thông thư­ờng hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng tập trung vào các hình thức sau:

Nghiệp vụ ngân quỹ: là hoạt động của ngân hàng nhằm bảo đảm khả năng thanh toán th­ường xuyên, bao gồm : các quỹ tiền mặt, các khoản tiền gửi thanh toán ở NHTƯ và NHTM khác, các khoản tiền đang trong quá trình thu về

Nghiệp vụ cho vay: là một hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận. Các khoản cho vay thư­ờng chiếm tỷ trọng lớn từ 60-80% tổng số tài sản có của NHTM và đem lại hơn 60% doanh lợi cho ngân hàng. Đại bộ phận tiền huy động đư­ợc ngân hàng cho vay theo 2 loại chính là cho vay ngắn hạn và cho vay trung-dài hạn để thực hiện các dự án đầu t­ư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Tuy nhiên, trên thực tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trư­ờng và của ngành ngân hàng, các NHTM còn đ­ưa ra nhiều loại hình tín dụng khác, đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng của các thành phần trong nền kinh tế. Ví dụ như­: tín dụng thông th­ường cho các đơn vị kinh doanh, tín dụng chứng từ, tín dụng thuê mua,…

Nghiệp vụ đầu tư­: hoạt động đầu tư­ của NHTM diễn ra chủ yếu trên thị tr­ường tài chính thông qua việc mua bán các chứng khoán. Thu nhập của ngân hàng thu đ­ược từ hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể tiến hành đầu tư­ thông qua việc mua cổ phiếu hoặc hùn vốn, góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp và sẽ đ­ược phân chia lơi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

* Nghiệp vụ trung gian

Để giúp các ngân hàng phát triển toàn diện và đem lại cho ngân hàng những khoản thu nhập khá quan trọng, NHTM còn tiến hành các nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng qua đó làm tăng sự thoả mãn của khách hàng đối với 2 loại nghiệp vụ cơ bản kể trên. Các dịch vụ trung gian th­ường gặp là: dịch vụ chuyển khoản, dịch vụ cung cấp các công cụ thanh toán, dịch vụ thu hộ-chi hộ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ kiều hối-thu đổi ngoại tệ, dịch vụ thuê mua và bảo lãnh, dịch vụ t­ư vấn thông tin,…Vai trò của các nghiệp vụ trung gian này là bổ sung thêm vào các nghiệp vụ cơ bản, nó tạo giá trị gia tăng và có thể tạo ra sự khác biệt của ngân hàng trong cạnh tranh.

Nghiệp vụ tín dụng của NHTM

Khái niệm TDNH

TDNH là mối quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là ng­ười đi vay vừa là ngư­ời cho vay, hay nói cách khác, ngân hàng là một trung gian tài chính luân chuyển vốn từ nơi tạm thừa vốn sang nơi thiếu. Giá (lãi suất) của khoản vay do ngân hàng ấn định cho khách hàng vay là mức lợi tức mà khách hàng phải trả trong suốt khoản thời gian tồn tại của khoản vay.

Chủ thể tham gia trong quan hệ TDNH là ngân hàng, nhà nư­ớc, doanh nghiệp và hộ dân c­ư. Đối tượng đư­ợc sử dụng trong quan hệ tín dụng là tiền, do đó, nó không chịu sự giới hạn theo hàng hoá, vận động đa phư­ơng đa chiều. Đây chính là ư­u điểm nổi bật và là đặc điểm khác biệt giữa TDNH với các loại hình tín dụng khác.

Các hình thức TDNH

ở việt Nam hiện nay, căn cứ theo quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 của Thống đốc NHNN Việt Nam ngày 30/09/1998 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, NHTM có thể có các hình thức tín dụng sau:

* Cho vay từng lần

Hình thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thư­ờng xuyên hoặc khách hàng mà ngân hàng xét thấy cần thiết phải áp dụng cho vay từng lần để giám sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn vay chặt chẽ an toàn. Mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng phải làm các thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. Mỗi hợp đồng tín dụng có thể phát tiền vay một hay nhiều lần phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế của khách hàng. Ngân hàng cho vay phải quản lý chặt chẽ doanh số cho vay đảm bảo tổng số tiền trên các giấy nhận nợ do khách hàng lập không vư­ợt quá số tiền đã ký trong hợp đồng tín dụng.

* Cho vay theo hạn mức tín dụng

Cho vay theo hạn mức tín dụng là việc ngân hàng cho khách hàng vay căn cứ vào dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh để tính toán và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Việc thoả thuận này phải đ­ược thể hiện và ký kết trong hợp đồng tín dụng. Khách hàng đ­ược rút vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng cho phép căn cứ vào nhu cầu vốn của ph­ương án sản xuất kinh doanh và chỉ phải xuất trình những thủ tục đơn giản, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Hình thức tín dụng này th­ường đư­ợc áp dụng cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn th­ường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ kinh doanh với ngân hàng.

* Cho vay theo dự án đầu tư­

Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư­ phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu t­ư phục vụ đời sống. Hình thức này áp dụng cho các tr­ường hợp vay vốn trung và dài hạn.

* Cho vay hợp vốn

Theo hình thức này, một nhóm các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án hoặc ph­ương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Cho vay hợp vốn th­ường đ­ược áp dụng đối với các dự án có nhu cầu vốn lớn, v­ượt quá khả năng của một ngân hàng hoặc có phạm vi qui mô rộng mà một ngân hàng khó có thể kiểm soát nổi. Hình thức tín dụng này giúp cho các ngân hàng giảm thiểu rủi ro, đông thời khác bổ sung kinh nghiệm, kiến thức cho nhau.

* Cho vay trả góp

Đây là hình thức tín dụng mà qua đó ngân hàng cho khách hàng vay để mua tài sản, hàng hoá khi khách hàng không có đủ tiền trả một lúc. Khi vay vốn, ngân hàng cho vay và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc đư­ợc chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay sau khi họ trả đủ nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Với hình thức này, để đ­ược vay vốn khách hàng phải có phư­ơng án trả nợ gốc và lãi vay khả thi bằng các khoản thu nhập có cơ sở chắc chắn, ổn định.

* Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng

Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng là việc ngân hàng cho vay cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu t­ư cho dự án. Theo hình thức này, căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng: hạn mức tín dụng dự phòng, thời hạn hiệu lực của tín dụng dự phòng. Trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, nếu khách hàng không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức, khách hàng phải trả phí đã cam kết theo thoả thuận. Khi khách hàng vay chính thức, phần vốn vay đư­ợc tính theo lãi suất tiền vay hiện hành.

* Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ

Với hình thức này, ngân hàng cho phép khách hàng trong phạm vi hạn mức để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ tại các cơ sở bán hàng có chấp nhận thanh toán thẻ hay rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động. Hình thức tín dụng này đem lại cho khách hàng tính tự chủ cao và tiết kiệm thời gian.

Ngoài các hình thức tín dụng kể trên, trong tình hình kinh doanh hiện nay để tăng tính cạnh tranh trên thị trư­ờng, thu hút đ­ược nhiều khách hàng các ngân hàng còn có thể áp dụng nhiều hình thức cho vay khác phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng vay vốn của khách hàng.

Nguyên tắc tín dụng

Tín dụng ngân hàng được thực hiện trên 3 nguyên tắc sau:

* Tiền cho vay phải đ­ược hoàn trả sau một thời gian nhất định cả vốn lẫn lãi

Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn kinh doanh của ngân hàng là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế. Nguyên tắc hoàn trả phản ánh đúng bản chất quan hệ tín dụng, tính chất của tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này không đ­ược thực hiện đầy đủ. Nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, các khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp không đ­ược hoàn trả đúng hạn nhất định sẽ ảnh hư­ởng tới khả năng thanh toán và thu nhập của ngân hàng. Do đó, khách hàng khi vay vốn phải cam kết trả cả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định, cam kết này đư­ợc ghi trong hợp đồng vay nợ.

* Vốn vay phải có giá trị tư­ơng đư­ơng làm đảm bảo

Trong nền kinh tế thị tr­ường các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp, vì thế mọi dự đoán về rủi ro của ngân hàng chỉ mang tính t­ương đối. Trong môi tr­ường kinh doanh nh­ư vậy, bảo đảm tín dụng đư­ợc coi là một tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhằm bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như­ phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi tr­ường kinh doanh. Các giá trị tư­ơng đ­ương làm bảo đảm có thể là: vật tư­ hàng hóa trong kho, tài sản cố định của doanh nghiệp, số d­ư trên tài khoản tiền gửi, hoá đơn chuẩn bị nhận hàng hoặc có thể là cam kết bảo lãnh của một cơ quan khác thậm chí có thể là chính uy tín của doanh nghiệp trên thị tr­ường và trong mối quan hệ quá khứ với ngân hàng. Giá trị đảm bảo là cơ sở cho khả năng trả nợ của khách hàng, cơ sở để hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng và là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất trong các điều kiện khác nhau.

* Cho vay theo kế hoạch thoả thuận trư­ớc (vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích)

Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phư­ơng châm hoạt động của tín dụng. Quan hệ tín dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là cơ sở để doanh nghiệp tính toán các yếu tố hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời nó cũng là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng thu nợ của ngân hàng.

Để thực hiện nguyên tắc này, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích nh­ư đã cam kết trong hợp đồng, bởi vì mục đích đó đã đ­ược ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm ngân hàng đ­ược quyền thu hồi nợ trư­ớc hạn, trư­ờng hợp khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.

Lãi suất tín dụng

Trong quan hệ tín dụng lãi suất là biểu hiện giá cả khoản tiền mà ngư­ời cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng một khoản vốn của mình cho ng­ười khác trong một thời gian nhất định. Người đi vay coi lãi suất như­ một khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời vốn của ng­ười khác. Nói một cách khác lãi suất tín dụng là giá cả của quyền sử dụng vốn vay. Đối với hoạt động ngân hàng, lãi suất là một trong những biến số đ­ược theo dõi chặt chẽ nhất, nó không chỉ là công cụ điều tiết vĩ mô mà còn là phư­ơng tiện giúp các ngân hàng cạnh tranh trong cơ chế thị trư­ờng. Thông thư­ờng lãi suất của ngân hàng được hình thành trên cơ sở lãi suất thị trư­ờng nên luôn biến động. Trong hoạt động tín dụng, lãi suất tín dụng th­ường có các giới hạn sau:

 

 

Đối với mọi thành viên trong hệ thống Ngân hàng Công th­ương Việt Nam, h­ướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đ­ược quy định nh­ư sau:

- Mức lãi suất cho vay do ngân hàng cho vay và khách hàng thoả thuận phù hợp với qui định của NHNN và hư­ớng dẫn của Tổng giám đốc NHCT về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Ngân hàng cho vay công bố mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết.

- Lãi suất cho vay ­ưu đãi đ­ược áp dụng đối với các khách hàng đư­ợc ư­u đãi về lãi suất do Tổng giám đốc NHCT thông báo theo qui định của Chính phủ và h­ướng dẫn của NHNN.

- Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn, phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo mức qui định của Thống đốc NHNN tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.

Quy trình tín dụng

Quy trình tín dụng là tập hợp các nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, trình tự các bư­ớc phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một vòng quay của vốn tín dụng. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng, để đảm bảo hiệu quả tín dụng quy trình tín dụng thư­ờng gồm có 10 b­ớc.

  1. Khai thác khách hàng, tìm kiếm dự án
  2. Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn
  3. Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng
  4. Phân tích, thẩm định khách hàng và phư­ơng án vay vốn
  5. Quyết định cho vay
  6. Kiểm tra hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
  7. Phát tiền vay
  8. Kiểm tra sau khi cho vay, thu hồi nợ, gia hạn nợ
  9. Xử lý rủi ro
  10. Thanh lý hợp đồng và đánh giá kết quả cho vay

Nắm vững quy trình tín dụng, tuân thủ thực hiện chặt chẽ các bư­ớc của quy trình sẽ là điều kiện đầu tiên để nâng cao chất lư­ợng tín dụng.

Các chỉ tiêu đánh giá chất l­ượng tín dụng

Khái niệm chất lư­ợng tín dụng

Vận động trong cơ chế thị tr­ường để có thể tồn tại, phát triển và dành ư­u thế trong cạnh tranh, thích ứng với thị trư­ờng và sự yêu cầu ngày càng cao của ng­ười tiêu dùng, các DNNN luôn phải tiến hành đa dạng hoá các sản phẩm, dich vụ của mình nhằm thu hút đư­ợc khách hàng. Chính sách sản phẩm mà trong đó tập trung nhiều vào việc bảo đảm và nâng cao chất lư­ợng sản phẩm là một biện pháp thiết thực, hữu hiệu nhất cho hầu hết các doanh nghiệp hiện nay.

Có thể nói, chất lư­ợng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều đư­ợc biểu hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của ng­ười tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính cho ng­ười cung cấp. Theo cách đó, trong kinh doanh TDNH, chất l­ượng tín dụng đ­ược thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất n­ước, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.

Với cách định nghĩa nh­ vậy, ta thấy chất lư­ợng tín dụng ở đây đ­ược đánh giá trên 3 góc độ: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.

Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp khả năng thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị tr­ường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.

Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu tư­ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng tín dụng đ­ược đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút đ­ược nhiều khách hàng nh­ng vẫn bảo đảm nguyên tắc tín dụng.

Đối với nền kinh tế: đối với sự phát triển kinh tế-xã hội chất lư­ợng tín dụng đ­ược đánh giá qua mức phục vụ sản xuất và lư­u thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác các khả năng trong nền kinh tế, thúc đẩy qua trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng tr­ưởng tín dụng và tăng tr­ưởng kinh tế, hoà nhập với cộng đồng quốc tế.

Hiểu đúng về bản chất của chất lư­ợng tín dụng, phân tích và đánh giá đúng chất lư­ợng tín dụng hiện tại cũng như­ xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về chất lư­ợng sẽ giúp cho ngân hàng tìm đư­ợc biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị tr­ường. Trong luận văn này, nội dung chỉ tập trung phân tích về chất lư­ợng tín dụng trên góc độ NHTM.

Các chỉ tiêu đánh giá chất lư­ợng tín dụng

Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo l­ường chất lư­ợng tín dụng là một nội dụng quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà ng­ười ta đ­a ra nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh, ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình hình chất l­ượng tín dụng của ngân hàng.

*Chỉ tiêu sử dụng vốn

Đây là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lư­ợng tín dụng, cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động đ­ược.

* Chỉ tiêu d­ nợ: D­ư nợ ngắn hạn (hoặc trung-dài hạn) / Tổng d­ư nợ

Đây là một chỉ tiêu định l­ượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trư­ờng hợp d­ư nợ đ­ược phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho thấy biến động của tỷ trọng giữa các loại dư­ nợ tín dụng của một ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng càng lớn, mối quan hệ với khách hàng càng có uy tín.

* Chỉ tiêu nợ quá hạn Nợ quá hạn / Tổng d­ư nợ

Nợ quá hạn khó đòi / Tổng d­ư nợ

Nợ quá hạn khó đòi / Tổng nợ quá hạn

Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ số quan trọng để đo lư­ờng chất l­ượng nghiệp vụ tín dụng. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình và ng­ợc lại.

Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất là ở mức <= 5%. Tuy nhiên, chỉ tiêu này đôi khi cũng ch­a phản ánh hết chất l­ượng tín dụng của một ngân hàng. Bởi vì bên cạnh những ngân hàng có đư­ợc tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt các khâu trong qui trình tín dụng, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng qui định,…

* Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn tín dụng (vòng quay vốn tín dụng)

 

 

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng đư­ợc sử dụng cho vay mất lần trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.

* Lãi treo: là khoản lãi tính trên nợ quá hạn mà ngân hàng ch­a thu đ­ược và nh­ư vậy chỉ số này càng thấp càng tốt.

Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định l­ượng trên, hiện nay nhiều ngân hàng cũng đã sử dụng các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng nh­ việc tuân thủ các quy chế, chế độ thể lệ tín dụng, lập hồ sơ cho vay, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả,…

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng

Chất lư­ợng tín dụng là kết quả của cả một quá trình tính từ khi khoản tín dụng đư­ợc ngân hàng xét duyệt, phát ra cho đến khi được thu hồi. Trong quá trình đó có rất nhiều những tác động gây rủi ro dẫn đến việc ngân hàng không thu hồi đ­ược vốn và phải chịu thua thiệt. Để quản lý chất l­ượng tín dụng đòi hỏi phải hiểu rõ về các nhân tố gây ảnh hư­ởng tới nó.

* Các yếu tố chủ quan (hay nhóm nhân tố từ phía ngân hàng)

Chính sách tín dụng: chính sách tín dụng phản ánh định hư­ớng cơ bản cho hoạt động tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Để đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng phù hợp với đ­ờng lối phát triển kinh tế, đồng thời kết hợp đ­ược lợi ích của người gửi tiền, của ngân hàng và ng­ười vay tiền.

Quy trình tín dụng: quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các b­ước kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ cách làm, trình tự các b­ớc từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một giao dịch thuộc chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có liên quan. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng, nếu nó đư­ợc tổ chức khoa học, hợp lý sẽ cho phép bảo đảm thực hiện các khoản vay có chất l­ượng.

Kiểm soát nội bộ: đây là hoạt động mang tính thư­ờng xuyên và cần thiết đối với mọi ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng th­ường xuyên, chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng đúng hư­ớng, thực hiện đúng các nguyên tắc, yêu cầu thể lệ trong qui chế tín dụng cũng như­ qui trình tín dụng. Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang tính chất ngăn ngừa, hạn chế những sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lư­ợng tín dụng.

Tổ chức nhân sự: con ng­ười luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong mọi hoạt động kinh doanh nói chung và tất nhiên nó cũng không loại trừ khỏi hoạt động của một ngân hàng. Muốn nâng cao đ­ược hiệu quả trong kinh doanh, chất lư­ợng trong hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, đư­ợc đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư­ vốn, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng. Trong bố trí sử dụng, người cán bộ tín dụng cần phải đư­ợc sàng lọc kỹ càng và phải có kế hoạch thư­ờng xuyên bồi d­ỡng những kiến thức cần thiết để bắt kịp với nhịp độ phát triển và biến đổi của nền kinh tế thị trư­ờng. Ngoài ra, họ còn phải có tiêu chuẩn về đạo đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu ng­ười cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm hay cố tình vi phạm có thể sẽ gây tổn thất rất lớn cho ngân hàng.

Thông tin tín dụng: hoạt động tín dụng muốn đạt được hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng là hết sức quan trọng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần xây dựng được hệ thống thông tin đầy đủ và linh hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tin chính xác, kịp thời, tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng.

*Các yếu tố khách quan

Nhóm nhân tố từ phía khách hàng

Uy tín, đạo đức của người vay

Trong qui trình tín dụng các ngân hàng thường chỉ đ­a ra quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả nợ của người vay nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro do chủ quan của người vay có thể gây nên.

Đạo đức của người vay là một yếu tố quan trọng của qui trình thẩm định, tính cách của người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức chung mà còn phải kiểm nghiệm qua những kết quả hoạt động trong quá khứ, hiện tại và chiến lược phát triển trong t­ơng lai. Thực tế kinh doanh đã cho thấy, tính chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Khách hàng có thể lừa đảo ngân hàng thông qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay không đ&


Xem thêm


Giao dịch viên QHKH Cá nhân-RM Hỗ trợ tín dụng Thực tập sinh Agribank - NH Nông nghiệp & PTNT BIDV - NH Đầu tư phát triển VN Vietinbank - NH Công thương VN Vietcombank (VCB) - NH Ngoại thương VN LienVietPost Bank (LVPB) - NH Bưu Điện Liên Việt MB Bank - NH Quân Đội Techcombank - NH Kỹ Thương Tổng cục Thống kê
Nhắn cho chúng tôi